watch sexy videos at nza-vids!
VG34.WAPATH.COM
Chân thành cám ơn các bạn đã đến với
WAPSITE VG34
WapSite có một
DIỂN ĐÀN HỖ TRỢ,
xin các bạn hãy sử dụng ngôn từ có văn hóa trong Diển Đàn trên tinh thần tôn trọng và giúp đở cho nhau và tuyệt đối không Quảng Cáo Wap trong Diển Đàn vì tại Trang Chủ này chúng tôi đã thực hiện Blog cho các bạn Quảnng Bá... Xin Cám Ơn
VG34.WAPATH.COM
PhungHoangLua
VIVODO
CÁC MÔN PHÁI VÕ


VIVODO là môn võ tổng hợp các võ học Việt (Võ nghệ, Bình Định, võ Lâm) - cổ truyền để tự vệ. Lấy cương-nhu hoà hợp làm căn bản, về võ lý vận dụng học thuyết âm-dương làm nền tảng. Còn là môn võ để luyện tập cho cơ thể khoẻ mạnh, tinh thần minh mẫn. Sống lành mạnh với tâm hồn thoái mái vị tha. Để nối tiếp truyền thống võ dân tộc được lưu truyền, để bảo tồn phát triển và truyền dạy cho thế hệ sau không bị thất truyền. Với những tinh hoa đặc thù của võ dân tộc Việt, võ VIVODO đã được phát triển và đã đúc kết gạn lọc một cách hệ thống dựa theo tiêu chuẩn quốc tế để thích hợp với mọi giới và luyện tập dễ dàng.

Về khía cạnh võ thuật thể hiện rõ nét liên hoàn tinh tế, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cương và nhu, giữa công và thủ, giữa mạnh và yếu, giữa bên trong (tinh, khí, thần) với bên ngoài cơ thể (thủ, nhãn và thân). Võ Bình Định là môn võ cổ truyền của dân tộc, được lưu truyền. Võ Bình Định là một võ luyện tập cho thân thể được khoẻ mạnh, để tự vệ nhưng đã đóng góp đáng kể trong việc cứu nước của tiền nhân. Qua dòng sử đấu tranh không ngừng để tự tồn và phát triển cũa dân Việt. Với những đặc thù độc đáo và tinh hoa của Võ cổ truyền Bình Định hay Võ Tây Sơn đã có từ ngàn xưa và được cải tiến, phát triển trong suốt tiến trình đấu tranh chống ngoại xâm và đánh đổ bạo quyền.

Võ Bình Định còn là môn Võ tinh thần, luyện tập ý chí thêm kiên cường, tâm hồn cao thượng, thương dân, yêu nước. Về kỹ thuật gồm có quyền thuật và mười tám môn binh khí, nhưng sỡ trường nhất là quyền, côn, kiếm, đao, thương.

Võ thuật đời Tây Sơn là đỉnh cao của võ thuật Bình Định. Nhiều lúc ba chữ võ Bình Định hòa lẫn với võ Tây Sơn. Nói đến võ Bình Định, người ta nghĩ ngay đến võ Tây Sơn. Nói đến võ Tây Sơn thì ta lại biết ngay là nói về võ Bình Định.

Đặc điểm của thời võ Tây Sơn
Về võ thuật có 4 môn: Côn, Quyền, Kiếm, Cổ.
Về binh khí thì có: Tây Sơn thập thần vũ khí.
Về ngựa thì có: Tây Sơn ngũ thần mã.
Về nhân vật thì có: Tây Sơn Tam Kiệt, Tây Sơn Thất Hổ tướng, Tây Sơn Ngũ Phụng Thư. Tây Sơn Lục Kỳ sĩ, Tây Sơn Tứ danh sư.

<
* Võ thuật thời Tây Sơn


1. Côn: Về côn thì ở nơi nào cũng có, gồm có hai thứ: Trường côn tục gọi là roi, đoản côn tục gọi là thước.
- Trường côn cũng có hai loại: roi trường (roi đấu) và roi chiến. Roi trường cao hơn đầu người, thường gọi là trường tiên dùng trong chiến trận. Có khi dùng trên ngựa thì sống như ngọn thương. Roi chiến hay gọi là trung bình tiên thường cao hơn đầu người một chút hoặc ngang bằng đầu người. Thường dùng để đánh với đám đông người.
- Đoản côn có tên gọi là thước, dài tới vai người sử dụng là một vũ khí cá nhân gọn gàng trong việc sử dụng và di chuyển. Tại Bình Định có nhiều võ sĩ dùng đoản côn dài hơn kích thước thường hoặc ngắn chỉ bằng 1 sải tay có thể dắt gọn vào lưng. Côn làm bằng gỗ dẻo và chắc như gỗ kiền kiền. Sớ của gỗ phải là sớ dọc. Nếu gỗ có sớ ngang thì sẽ dễ gãy. Đôi khi côn cũng làm bằng thép.

2. Quyền: Đặc điểm của quyền Bình Định là môn quyền hòa hợp giữa ngạnh quyền và miên quyền. Ngạnh quyền là quyền dùng sức mạnh bên ngoài mà cốt ở sự uyển chuyển hòa hợp. Lấy nội công làm chính. Ở Bình Định, các võ sư thường dạy cho các môn đệ cả hai thứ. Người giỏi bên ngạnh quyền, nội công vẫn có. Người chuyên về nội công, ngạnh quyền không đến nỗi tầm thường.

3. Kiếm: Là một loại binh khí bằng kim loại sắc bén. Kiếm gồm hai loại kiếm và đao. Kiếm thì có trường kiếm và song kiếm. Thường trường kiếm thì đàn ông dùng, song kiếm thì đàn bà dùng. Trường kiếm phát huy sức mạnh. Song kiếm thích hợp uyển chuyển, lẹ làng. Đao thì có đại đao, tục gọi là siêu và đoản đao gọi tắt là đao. Bình Định thường sử dụng loại đao ngắn gọi là mã tấu thường để đánh giáp lá cà với địch. Rựa và dao bảy cũng được liệt vào loại đao.

4. Cổ: Là môn võ trống. Đây là một bộ môn võ thuật đặc biệt của thời Tây Sơn. Cho nên còn gọi là trống võ Tây Sơn. Trống võ dùng để luyện tập võ và điều binh khiển trận. Bộ võ trống gồm 16 cái lớn nhỏ được bố trí thành một giàn trống như sau: Đứng ngay chính giữa là võ công. Hai giàn trống nằm ở vị trí trước và sau võ công.

- Phía sau gồm 4 trống lớn, đường kính hơn một thước tây, được treo trên một kệ gỗ gồm từng đôi một. Hai cái gần sát đất, hai cái ngang đầu người. Bốn trống này được võ công đánh bằng gót chân, cùi chỏ và đầu. Tùy theo tầm vóc của võ nhân mà khoảng cách treo trống cũng tăng giảm theo. Tuy nhiên, khi luyện võ đã khá thuần thục thì khoảng cách càng chênh lệch càng phân biệt được tài nghệ cao thấp. Ban đầu thì khoảng cách thuận vị trí của gót chân, cùi chỏ, sau này trống treo ở bất cứ nơi nào võ nhân cũng dùng gót và cùi chỏ chân đánh trúng. Khán giả chỉ nhìn theo gót chân, cùi chỏ người có võ thuật hay chỉ nghe tiếng trống vang lên dòn dã, âm điệu nhịp nhàng và âm sắc như nhau thì biết được sự điêu luyện của võ nhân. Còn khi nghe tiếng trống khi to khi nhỏ, khi kêu khi tắc, thì biết ngay tay học trò võ mới vào nghề.

- Phía trước võ nhân là một giàn trống gồm 12 cái, nơi trung tâm là hai trống lớn bằng một nửa trống phía sau. Hai trống này làm chủ cả giàn trống trầm hùng luôn luôn rền vang liên tục, âm dương hòa lẫn cùng nhau. Khi người sử dụng có nội công thâm hậu thì tiếng trống vang xa gây thành tiếng sấm rền vang. Khi tiếng trống âm dương thay đổi nhịp điệu, người nghe biết rằng thế trận đang đổi thay, khi hùng hồn dòn giã là khí thế tấn công. Khi trầm trầm chậm rãi là lúc đoàn quân di chuyển…

Phía trước hai trống âm dương có 4 trống chiến, mặt trống lớn bằng hai phần ba trống âm dương. 2 cái nằm trước trống âm, 2 cái nằm trước trống dương, được phối khí theo trống mẹ: 2 âm, 2 dương. Âm nằm bên trái, dương nằm bên phải. Tiếng trống âm nghe trong và cao. Tiếng trống dương nghe trầm và đục. Bốn trống của hai loại này dùng để điều khiển binh sĩ, hợp với trống mẹ. Khi tiếng trống âm vang rền thánh thót thì trận thế cần thủ nhiều hơn công. Khí tiếng trống dương rền vang là lúc xung phong kết thúc trận tiền. Phối hợp nhịp nhàng, bốn trống đại phía sau vẫn điểm nhịp khi khoan thai, khi dồn dập. Sau hai trống âm dương một dãy gồm 6 trống nhỏ chỉ bằng nửa hai trống âm dương. Đây là một dãy trống dùng trong việc điều hành, phối hợp. Nó chỉ dùng trong việc luyện tập, hiệu lệnh, từ trái sang phải 6 trống này có độ căng của mặt trống khác nhau nên khi đánh lên có 6 âm độ khác nhau. Khi được đánh lên, âm thanh của 6 trống sẽ tạo nên những nhịp điệu khoan thai, dồn dập … điều khiển ba quân làm theo tiếng trống: hội quân, xuất quân, hành quân …

Trong các cuộc thao diễn, 6 trống này hòa nhịp với 2 trống âm dương làm thành một giàn nhạc võ. Hai trống âm dương đánh nhịp thùng, thùng, 6 trống hòa reo làm nhịp nhàng thế võ. Giàn trống thay thế cho giàn trống kèn của các nước Tây phương. Tuy nhiên có nhiều cái khác biệt là giàn trống chỉ một người đánh, phải là một vị tướng vừa đánh vừa chỉ huy hoặc điều khiển hành quân, tác chiến bằng âm thanh trống.

TRIỆT QUYỀN ĐẠO
Năm 1972, phim "Đường sơn đại huynh" đã phát hiện Lý Tiểu Long cho giới ham mộ phim quyền cước. Và khán giả hân hoan được biết ông vừa là một tài tử có trình độ võ thuật vừa là sáng tổ môn Jeet Kune Do.

Xin trở lại nguồn gốc:
Lý Tiểu Long (1940-1973), tên thật là Lý Chấn Phan, học với Diệp Vấn Vịnh Xuân Quyền. Sau anh có dịp tham khảo những môn Thất Tinh Đường Lang Quyền, Thái Lý Phật, Thái Cực Quyền, Tae Kwon Do, Quyền Anh...

Diệp Chuẩn có kể vì cha ông từ chối truyền lại những phần cuối của môn Vịnh Xuân cho Lý, nên anh mới có ý định sáng lập ra môn Jeet Kune Do. Tên của môn phái có từ 1967.

Jeet Kune Do, theo Hán-Việt, là Tiệt Quyền Đạo (chớ không phải là Triệt Quyền Đạo như ta thường dịch). Như tên cho ta biết, môn nầy chú trọng đặc biệt tới nguyên lý tiệt. Nguyên lý nêu được áp dụng trong những môn võ Trung Hoa hình thành dưới triều đại nhà Minh (1368-1644).

Trong thật dụng, tiệt là chặn đòn địch trước khi đòn được phát triển tới mức tối đa, tức không cho địch phát huy kình lực. Như vậy, ta chỉ cần một chút lực là kềm chế được một địch thủ mạnh hơn ta. Có hai trường hợp :

* Lúc thủ thì thế đở tiếp xúc với đòn địch khi đòn vừa mới phát ra.
* Lúc dùng công phá đòn công của địch thì nhanh hơn địch dùng một đòn đấm đánh vẹt đòn địch ra ngoài trung tâm tuyến, hay một cú đạp chặn địch không tới gần ta được.

Đặc điểm khác của Tiệt Quyền Đạo, thoát thai từ đặc điểm trước, là niêm thủ. Niêm thủ là hai tay dính liền với hai tay địch hầu tạo sơ hở để ta tấn công vào, đúng theo sở trường của hai môn Vịnh Xuân và Thất Tinh Đường Lang Quyền. Nhằm mục đích ấy thủ pháp thường dùng trong Jeet Kune Do là Lập thủ của Vịnh Xuân và Thiêu thủ của Thất Tinh Đường Lang. Và phương pháp "nhất phục nhị" làm chánh : ta dùng một tay chế ngự hai tay địch, tay ta còn lại tấn công đối thủ. Phương pháp nầy thịnh hành trong nhiều môn phái Trung Hoa, không riêng trong Vịnh Xuân Quyền.

Đặc điểm quan trọng của Jeet Kune Do là không bị gò bó trong khuôn khổ của phương pháp nhất định. Thường ta đều có phản ứng nhất định theo phương pháp của phái ta đã học. Tiệt Quyền Đạo dạy ta phải thay đổi phương pháp tùy theo trường hợp. Vịnh Xuân Quyền có châm ngôn : "Dĩ vô pháp thắng hữu pháp". Và Lý Tiểu Long có viết : "Dĩ vô pháp vi hữu pháp, dĩ vô hạn vi hữu hạn".

Trên thực tế, anh đả chọn lọc thế từ những môn mà anh đả có dịp tham khảo qua và phối hợp với Vịnh Xuân. Lúc đầu, anh dạy bài Vịnh Xuân Tiểu Niệm Đầu làm căn bản cho môn Jeet Kune Do. Nhưng sau đó bài không được dạy nữa và toàn môn phái chỉ là thế của nhiều môn phái khác pha trộn vào phương pháp Niêm thủ của Vịnh Xuân.

Những thế thường dùng trong môn phái của Lý Tiểu Long là:
- Nhựt tự xung quyền (đòn đấm thẳng),
- Băng trùy hay Quải trùy (đòn đánh bật lưng nấm tay),
- Thế Jab của Quyền Anh,
- Thế uppercut của Quyền Anh,
- Đòn đấm móc của Quyền Anh,
- Đòn đá thẳng,
- Đòn đạp,
- Thế đá vòng...

Phần binh khí còn truyền lại là Nhị tiết côn (Nunchaku Okinawa), song đoản côn Phi Luật Tân.

Ông chỉ có đệ tử tại Mỹ, những người đó là : Lee Dan (sanh năm 1930), Lee James, Glover Jessie, Hart Ed, Hartsell Larry, Kimura Taky, Wong Ted, Inosanto Dan (sanh năm 1936)...

Hiện tại, Inosanto Dan là truyền nhân hoạt động mạnh nhất. Ông đã thêm vào môn Jeek Kune Do nhiều kỹ thuật Kali và Eskrima của Phi Luật Tân.

Môn Jee Kune Do thịnh hành tại Mỹ Châu và Âu Châu. Hiện nay, tại Trung Quốc, có vài nhân vật tự xưng là truyền nhân của Tiệt Quyền Đạo !

MÊ TÔNG QUYỀN
Yến Thanh Quyền (Yan Qing Quan 燕青拳), tên chính xác là Mê Tung nghệ (chữ Hán: 迷蹤藝); bính âm Hán ngữ: Mízōngyì; dịch nghĩa tiếng Anh "Lost Track Skill"), hay được biết dưới tên Mê Tung quyền (chữ Hán: 迷蹤拳; bính âm: Mízōng quán; dịch nghĩa tiếng Anh: "Lost Track Fist") có nguồn gốc từ bài quyền Mê Tông La Hán của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam (chữ Hán: 迷蹤羅漢; bính âm: Mízōng Luóhàn.)

Yến Thanh quyền còn được gọi là Nghê Tung quyền, Mật Tung quyền, Mê Tung nghệ (Mật Tông là một dòng tu kín trong Phật giáo ở Trung Hoa và Miến Điện), Mê Lộ quyền (đường quyền bí hiểm), Mê Tung nghệ (vết chân bí hiểm) mượn sự tích ăn trộm đào tường khoét vách không để lại dấu vết của nhân vật Yến Thanh trong Thủy Hử truyền lại. Mê (迷) có nghĩa là biến ảo (không để lại dấu vết), tông hay tung (蹤) có nghĩa là dấu vết, dấu chân, tạm dịch những bước chân kỳ ảo.

Nguồn gốc
Gọi là Yến Thanh quyền là vì môn quyền này nổi tiếng từ một người anh hùng dân gian trong cuộc khởi nghĩa của nông dân thời Bắc Tống tên là Yến Thanh, sau này Thi Nại Am đã tiểu thuyết hóa Yến Thanh thành một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong bộ tiểu thuyết anh hùng Thủy Hử.

Còn một thuyết khác kể lại rằng các nhà sư và tăng nhân ở Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam luôn luôn phải đối phó bọn giặc khỉ cụt đuôi vào chùa ăn trộm và ra đi không để lại dấu vết khiến họ phải canh phòng và rình mò truy đuổi nhưng không bao giờ tìm được hang ổ của chúng vì chỉ đuổi được một đoạn đường là chúng mất dạng trong các khe núi. Điều này đã gợi ý kích thích sáng tác ở các nhà sư Thiếu Lâm sáng tạo ra một loại quyền thuật kỳ lạ này.

Ở ngoài đời đã có thuyết "Đông là Yến Thanh (Chỉ vùng Sơn Đông), Tây là Nghê Tông (chỉ vùng Hà Nam)". Hoắc Nguyên Giáp nhà võ học nổi tiếng (1869-1910) người huyện Tĩnh Hải (Hà Bắc) luyện lại gọi là Mê Tông nghệ, Trương Diệu Đình ở Thương Châu (Hà Bắc) truyền môn này gọi là Yến Thanh quyền.

Ở Thanh Châu (Sơn Đông) lại gọi là Yến Thanh Thần Chùy, một dải Thiên Tân truyền môn này lại gọi là Yến Thanh Thập Bát Phiên (18 lần lật của Yến Thanh).

Sau này Hoắc Nguyên Giáp đã dùng Mê Tung quyền đánh bại tất cả các võ sĩ Trung Hoa và phương Tây và lập ra Tinh Võ Thể Dục Hội (Chin Wu Athletic Association) tại Thượng Hải.

Đặc điểm kỹ pháp
Đặc điểm của Yến Thanh quyền là nhẹ nhàng mau lẹ, thi triển phiêu dật (nhàn hạ thoải mái), trọng công phu trọng khéo léo, đủ cả cứng mềm. Về thủ pháp thì chủ yếu là móc, ôm, ngắt, vuốt, bọc, vồ, gác, ép, chú trọng kỹ pháp cầm nã.

Về thoái pháp (bộ pháp: tấn pháp - cước pháp) chủ yếu là đá, điểm, móc, treo, quấn, quét, cắt, hất cả đến khều âm cước xé giữa hai chân, liên hoàn dậm, tránh chân (đóa tử cước) biểu thị yêu cầu tập trung vào một điểm mà đề cập tới cả tám phương.

Môn quyền này về cơ bản được tích hợp giữa phong cách của các loại quyền thuật Bắc Thiếu Lâm pha trộn với phong cách quyền thuật của Đạo gia như Nội gia quyền (hiện nay có nhiều người lầm lẫn Thái Cực quyền là Nội gia quyền, sẽ được bàn sau) và Bát Quái chưởng.

Về thân pháp thì lấy giấu, né, vặn, lắc làm chính (tàng, thiểm, ninh, đẩu), còn bộ pháp thì lấy nhảy dọc, bắt lén (tung, khiêu, thâu, móc) làm chính. Coi trọng đòn chân, trừ các phép thường dời, đè, đá, dựa ra còn có đá bao, đá cọc gỗ v.v.. Trong các bài dùng khuỷu với động tác chân và vọt lật, trong thực sự thì chú trọng mượn thế thuận sức, ra (đòn) lúc không để ý. Trong quyền quyết nói: "Thấy cứng rụt tay về, về tay vào tay lén, tay lén mà ngắt tay, ngắt tay vào ôm tay"

"Kiến cương nhi hồi thủ
hồi thủ nhập thâu thủ
thâu thủ nhi thái thủ
thâu thủ nhi thái thủ"

Thế quyền tuy nghiêm ngặt mà vẫn chuyên chú tính uyển chuyển của Bắc Thiếu Lâm và phong thái tiêu diêu nhàn nhã của Đạo gia.

Về bài bản có Mật Tông mẫu quyền (mẹ Mật Tông), luyện thủ quyền, đại tiểu ngũ hổ quyền, Mật tông trường quyền, Yến thanh quyền, Yến Thanh giá, Yến thanh thần chùy, Yến thanh phiên tử, Yến Thanh chưởng, tam bộ giá, bát dả quyền, tứ lộ bôn đả (chạy đánh bốn đường) v.v...

Về khí giới thì có Yến Thanh đao, Yến Thanh quải, Minh đường đao, Thanh Long Kiếm, Nhị Lang côn, Đối với sách tán thủ thì có Yến Thanh tam đả, Yến thanh thập đả, Yến thanh thập tứ thủ, Ngũ hoa miên quyền (quyền mềm như bông), Bán tỵ phong đoản đả (đánh gần nửa tránh gió), Lý ngoại chiến (đánh trong ngoài), Nghênh diện đối (nghênh mặt đón v.v...)

Ngoài ra còn khinh công, ngạnh công, bảo kiện công (loại công phu dưỡng sinh)

THIẾU LÂM TỰ


“Thiên hạ kungfu xuất Thiếu Lâm”, có lẽ không phải chờ đến những tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, Cổ Long, Thiếu Lâm Tự mới được biết đến như là một Thái Sơn Bắc Đẩu của võ lâm trung nguyên.

Trên thực tế, kungfu Thiếu Lâm chính là hình ảnh đại diện của nền võ học Trung Hoa, là cơ sở cho võ công của nhiều môn phái khác, và do đó cũng là phần cơ bản nhất tạo nên môn võ Wushu mà người Trung Quốc tự hào đem ra giới thiệu với thế giới dưới tư cách một phần tinh túy nhất trong truyền thống võ học của mình.

Cùng với thời gian, đặc biệt dưới ảnh hưởng của các tiểu thuyết, phim ảnh võ hiệp, kungfu Thiếu Lâm Tự trong mắt chúng ta ngày càng nhuốm màu sắc huyền bí và kì ảo.

Nhưng điều thú vị là ở chỗ, những gì còn lại đến hôm nay của võ học Thiếu Lâm đủ để chúng ta tin rằng những điều truyền tụng không phải không có cơ sở. Người hâm mộ hẳn đều hơn một lần tự hỏi: Có thật là dưới gầm trời này, trong thế giới thực tại này vẫn tồn tại một không gian võ học cao minh, bí ẩn của ngàn năm trước? Và phải chăng những bí kíp Dịch cân kinh, Tẩy tủy kinh... vẫn nằm yên trong Tàng Kinh các một ngày nào đó sẽ lại tái xuất giang hồ và gây cơn sóng gió, như chúng đã từng gây ra trong quá khứ? VG34 sẽ xin trân trọng đăng tải loạt bài viết thú vị về huyền thoại của môn võ lừng danh thế giới này...

KÌ 1: TỪ ĐẠT MA SƯ TỔ ĐẾN TRUNG NGUYÊN THÁI SƠN BẮC ĐẨU


Ở Trung Quốc hiện nay có đến 10 ngôi chùa mang danh Thiếu Lâm. Tuy nhiên, Thiếu Lâm được nhắc đến trong tiểu thuyết Kim Dung, Cổ Long, cái nôi của thiền tông và võ thuật Trung Hoa là Thiếu Lâm Tung Sơn, thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày nay, cách thủ đô Bắc Kinh chừng 600km về phía Nam. Chùa xây dựng trong khu rừng trên đỉnh núi Thiếu Thất thuộc dãy Tung Sơn, nên được gọi là “Thiếu Lâm”.

Tung Sơn thắng địa


Dãy núi Tung Sơn.
Dãy núi Tung Sơn là một trong Ngũ Nhạc - một trong 5 dãy núi lớn và danh tiếng nhất Trung Hoa, nằm ở phía Nam sông Hoàng Hà và phía Bắc sông Dương Tử (Trường Giang). Núi Thiếu Thất cao chừng 860 trượng, phong cảnh tao nhã, địa thế thuận tiện, chung quanh núi được bao phủ bởi rừng thiết mộc, một loại cây rắn chắc như sắt, bền bỉ, quí báu hiếm có, tương truyền do Ðạt Ma trồng ở Tung Sơn, dùng làm binh khí và vật dụng cho chùa Thiếu Lâm. Ðỉnh Thiếu Thất bằng phẳng, rộng rãi trên 5.000 trượng vuông, là nơi tọa lạc của ngôi chùa Thiếu Lâm huyền thoại.

Gần Thiếu Thất Sơn có Lộng Nguyệt Hồ, sâu khoảng bốn trượng, nước trong suốt, vào những đêm trăng sáng, đứng trên đỉnh Thiếu Thất nhìn xuống mặt hồ giống như một vầng trăng lớn. Hồ là nơi tập luyện "thủy công" cho các môn đồ Thiếu Lâm sau này.

Theo sử sách ghi lại, vào đời Hán, Minh Đế một hôm mơ thấy vị thần người tỏa ánh vàng bay đi bay lại trong cung, có người nói là đức Phật Tây phương, vua bèn cho người sang Tây vực cầu Phật pháp, mời về hai vị cao tăng Ấn Độ là Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, lập chùa Bạch Mã ở Lạc Dương để hai người giảng kinh. Đây là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Sau hai người muốn tìm chốn núi cao rừng thẳm để tu luyện, bèn xin tìm nơi thanh tĩnh lập chùa, và đặt chân lên miền đất phúc Tung Sơn, xây dựng Đông Đô Đại Pháp Vương Tự.

Minh Đế sùng Phật, quan lại trong triều không kể cao thấp đều phải đến đây nghe giảng kinh. Tại đây, hai vị cao tăng đã dịch xong bộ Tứ thập nhị chương kinh (Bộ kinh 42 chương, được Kim Dung mô tả là đối tượng truy tìm của cả võ lâm và triều đình trong cuốn tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng Lộc đình ký). Như vậy, hạt giống Phật giáo từ Tây phương bay tới Trung Hoa đã nảy mầm ngay trên đất Tung Sơn.

Thời Tam Quốc, cũng trên đất Tung Sơn xuất hiện vị tăng nhân người Hán đầu tiên trong lịch sử, đó là Chu Sĩ Hạnh, người đầu tiên sang Tây Phương cầu pháp, mang về bản kinh Bát nhã bằng tiếng Phạn. Sách xưa chép rằng, khi ông mất, đệ tử đem hỏa táng, đến lúc lửa cháy tàn mà thân xác vẫn như còn nguyên; đến khi niệm chú thì xương cốt mới tan ra.

Năm Khai Hoàng thứ 20 đời Tùy Văn Đế, cao tăng Huyền Trang ra đời ở thôn Trần Hà dưới chân núi Tung Sơn. Bấy giờ các tông phái Phật giáo ở Trung Quốc đua nhau nổi lên, Huyền Trang nhận thấy kinh điển các phái khác nhau, tranh luận không dứt, mà xét cho cùng là do không có kinh điển gốc để tra cứu, bèn vượt gian khổ sang Thiên Trúc thỉnh kinh, mang về dịch trong 19 năm, tất cả 1331 quyển.

Truyền thuyết Đạt


Theo ghi chép trong cổ tịch, Thiếu Lâm là một trong những ngôi chùa cổ xưa nhất của Trung Quốc, được Hiếu Văn đế triều Bắc Ngụy cho xây dựng năm Thái Hòa thứ 19 (495) làm nơi tu hành và thuyết giảng cho nhà sư Bạt Đà, vị thần tăng người Ấn Ðộ đầu tiên đến Trung Hoa truyền bá Phật pháp. Tuy nhiên, kungfu Thiếu Lâm lại gắn với tên tuổi của Đạt Ma sư tổ, tức Bồ Đề Đạt Ma, người được cho là tổ khai sơn của Thiền tông Trung Hoa.

Theo truyền thuyết, Bồ Đề Đạt Ma là con trai thứ ba của vua Nam Thiên Trúc, vượt biển sang Trung Hoa truyền pháp. Lương Vũ Đế chuộng đạo, mời Đạt Ma đến hội kiến, nhưng không cùng chí hướng; Đạt Ma bứt một cọng lau ném xuống sông, rồi đứng trên đó mà vượt Trường Giang vân du lên miền Giang Bắc.

Năm Hiếu Xương thứ ba, đời Bắc Ngụy (527), Bồ Đề Đạt Ma đến Thiếu Lâm. Có nhà sư ở Tung Sơn tên là Thần Quang nghe danh đến xin bái yết. Đạt Ma vẫn quay mặt vào bức tường, không nói năng gì. Thần Quang không nản, nhủ rằng: “Người xưa cầu đạo, đều phải trải qua gian nan thử thách, chịu những điều người thường không chịu được”.

Giữa đêm tháng chạp tuyết lớn đầy trời, Thần Quang đứng chờ bất động bên ngoài chùa, sáng ra tuyết ngập đến đầu gối. Đạt Ma lúc ấy mới hỏi: “Ngươi đứng mãi trong tuyết để chờ gì vậy?” Thần Quang khóc mà nói: “Chỉ mong được đại sư truyền đạo”. Biết Đạt Ma còn e mình chỉ nhất thời kích động, không thể lâu dài, Thần Quang liền rút đao tự chặt đứt cánh tay trái, đặt trước mặt thầy. Đạt Ma bấy giờ mới nhận làm đệ tử, đổi pháp danh là Huệ Khả. Trong chùa Thiếu Lâm hiện nay còn Lập tuyết đình, xây dựng dưới thời Đường, nhằm ghi lại sự tích Huệ Khả chặt tay cầu đạo.

Tương truyền, trong thời gian ở Thiếu Lâm, thấy nhiều nhà sư thể trạng yếu đuối, không chịu nổi khí lạnh của núi rừng và thường hay ngủ gật trong lúc nghe thuyết giảng, Đạt Ma bắt đầu nghĩ cách tu rèn thân thể và khắc chế ngoại cảnh cho người học đạo. Kết quả sau 9 năm diện bích tham thiền (ngồi thiền quay mặt vào tường) trong động Trấn Vũ trên núi Thiếu Thất, ngài đã tìm ra tinh yếu và đúc kết vào trong hai cuốn Dịch cân kinh rèn luyện nội công và Tẩy tủy kinh rèn luyện khí công.

Có thuyết còn nói rằng, hai bộ Cửu dương chân kinh và Cửu âm chân kinh cũng do Đạt Ma sáng tạo ra. Trong khi đó, một số nghiên cứu lại nhận định, ngài đã kết hợp các bài tập luyện thở Yoga và một số môn võ tay không của Ấn Độ để tạo nên các bài tập rèn luyện tăng cường sức khỏe phục vụ cho việc tu hành.

Theo truyền thuyết đạo Phật, sơ tổ Thiền tông Bồ Đề Đạt Ma trong thời gian ở Trung Quốc đã dùng 4 quyển Lăng già kinh để dạy đệ tử, sau truyền lại cho Huệ Khả, từ đây, Thiền Tông Trung Quốc có thế hệ truyền pháp đầu tiên.

Sau khi Bồ Đề Đạt Ma viên tịch (536), các Đại sư Thiếu Lâm tiếp tục tập luyện những phương thức ngài truyền lại. Thiếu Lâm phái qua nhiều đời đã được các sư tăng xiển dương, đúc kết và phát triển mạnh mẽ và dần trở thành Bắc đẩu của các võ phái Trung Hoa. Việc hệ thống hóa võ thuật Thiếu Lâm được cho là bắt đầu từ những võ quan về hưu tu hành tại chùa.

Năm Kiến Đức thứ 3 đời Bắc Chu, Vũ Đế cấm Phật, chùa bị phá. Những năm Đại Tượng được xây dựng lại, đổi tên thành chùa Bộ Cô, mời 120 người gồm Huệ Viễn, Hồng Tuần… đến tu hành, gọi là “Bồ tát tăng”. Đời Tùy Phật giáo hưng thịnh, sắc cho lấy lại tên Thiếu Lâm Tự, ban cấp đất đai, thành ngôi chùa lớn bậc nhất ở phương Bắc.

13 võ tăng đời Đường
Đến đời Đường (618 - 907), Lục tổ Huệ Năng đề ra chủ trương đốn ngộ, cho rằng việc tu hành không cần phải tách rời đời sống thực, “gánh nước chặt củi, đều là diệu đạo”. Công phu Thiếu Lâm bắt nguồn chính từ sinh hoạt thường ngày của tăng nhân. Tương truyền, đệ tử Huệ Quang khi mới 12 tuổi có thể đứng trên miệng giếng sâu đá cầu 500 quả, chứng tỏ công phu không phải hạng tầm thường. Rất nhiều chiêu thức của võ công Thiếu Lâm đều là sự phát triển từ những động tác thường ngày như gánh nước, quét sân, bổ củi… Công phu cao nhất thực ra lại có nguồn gốc hết sức bình dị.

Đầu đời Đường, Thiếu Lâm đã có một đội ngũ tăng lữ dũng mãnh, thiện chiến. Khoảng năm Vũ Đức, 13 tăng nhân Thiếu Lâm Tự tham gia trợ chiến giải vây trong cuộc chiến thảo phạt Vương Thế Sung của Tần vương Lý Thế Dân, lập công trạng lớn.

Lịch sử võ thuật Trung Quốc còn nhắc nhiều đến ba vị có công lớn nhất từ Thiếu Lâm Tự là Chí Tháo, Huệ Dương và Đàm Tông. Sau khi lên ngôi, Đường Thái Tông Lý Thế Dân phong cho hòa thượng Đàm Tông làm Đại tướng quân, đồng thời đặc chỉ cho phép các hòa thượng Thiếu Lâm được luyện đội ngũ tăng binh, lại cho phép đại khai sát giới. Các triều đại sau này vẫn theo lệ đó.

Hiện nay trong chùa còn tấm bia Đường Thái Tông tứ Thiếu Lâm Tự chủ giáo ghi lại giai đoạn lịch sử này. Đây chính là sự kiện lịch sử được dùng làm bối cảnh cho bộ phim Thiếu Lâm Tự bản 1982 do Lý Liên Kiệt thủ vai chính Giác Viễn, học trò của Đàm Tông.

Cao Tông và Võ Tắc Thiên cũng thường đến viếng chùa, phong thưởng rất hậu. Được sự ủng hộ to lớn của triều đình, Thiếu Lâm nhanh chóng phát triển thành Đại phật tự danh trấn thiên hạ. Sau này các vị võ quan của triều đại nhà Đường khi về hưu cũng thường đến chùa Thiếu Lâm để trao đổi võ thuật, tạo nên một không khí giao lưu võ học trở thành truyền thống của nhà chùa cho đến các đời sau.

Nhưng cho đến lúc này các bộ môn quyền thuật của Thiếu Lâm vẫn chưa được coi trọng và phát triển đúng tầm cỡ, vì lúc đó các phương pháp sử dụng binh khí vẫn còn thịnh hành, và vũ khí phòng thân của các vị tăng nhân trong chùa chíh là cây côn, mà chủ yếu là trường côn. Chùa Thiếu Lâm lúc đó vẫn còn giữ nghiêm giới luật, cấm các tăng nhân sử dụng vũ khí bằng kim loại sắc nhọn có thể gây sát thương. Chính vì vậy, dễ lí giải vì sao côn pháp Thiếu Lâm lại tiến rất nhanh đến trình độ điêu luyện và tinh diệu. Các loại binh khí khác (thập bát ban binh khí võ nghệ) chỉ được phát triển ở các dòng Nam quyền và Bắc quyền Thiếu Lâm sau này mà thôi.

Khoảng năm Hội Xương, Vũ Tông cấm Phật, chùa bị phá đến phân nửa, suy dần trong những năm cuối đời Đường và được khôi phục dưới đời Tống.

Tống Thái Tổ và truyền thuyết Hồng quyền


Lịch sử chép rằng, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lúc thiếu thời đã từng lên Thiếu Lâm học tập võ thuật, và trở thành một quyền sư dạy võ thuật trong chùa Thiếu Lâm, sáng tạo ra Tam thập lục thế trường quyền (36 thế đánh của Thiếu Lâm Trường Quyền) mà sau này gọi là bài Thiếu Lâm Thái Tổ Trường Quyền.

Sử liệu thời nhà Tống cũng ghi nhận Triệu Khuông Dẫn thường sử dụng côn pháp khi lâm trận, nghệ thuật côn pháp của ông điêu luyện và hiệu quả không kém các đại tướng của ông với các loại binh khí khác.

Tuy nhiên có một truyền thuyết lưu truyền trong dân gian mà Thiếu Lâm Tự cũng công nhận: bài Thái Tổ Trường Quyền không phải do Triệu Khuông Dẫn tự soạn ra, mà do ông nằm mơ được tiên nhân dạy cho 36 động tác căn bản của Hồng Quyền, rồi tỉnh dậy theo đó soạn lại. Tuy nhiên, những yếu tố nhuốm màu truyền thuyết này không ngăn cản Hồng quyền trở thành cơ sở để hình dung diện mạo võ công Thiếu Lâm đời Tống.

Thời kì này, võ công Thiếu Lâm lại tiếp tục được nâng cao, tăng nhân trong chùa có đến hơn 2000 người. Các nhà sư bắt đầu tổng hợp những phương pháp chiến đấu cá nhân bằng tay không, một thể thức đang được lưu truyền trong dân gian lúc đó. Có thể kể ra một số bài quyền ra đời trong thời kỳ này là Tiểu Hồng Quyền, Đại Hồng Quyền, Thông Tý Quyền, Ngũ Hợp Quyền và Khán Gia Quyền của hòa thượng Phúc Cư.

Thiếu Lâm đại hội
và 72 tuyệt kĩ


Năm Hoàng Khánh thứ nhất (1312), Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt mệnh cho hòa thượng Phúc Dụ trụ trì chùa Thiếu Lâm, phong cho làm Tấn Quốc Công, thống lĩnh các chùa quán ở Tung Sơn. Từ đó các cao tăng trong ngoài Trung nguyên tụ hội về đây, thi triển võ công, đàm đạo Phật pháp, tăng chúng thường trên dưới 2000 người.

Tỉ thí võ nghệ (Bích họa trên tường Thiếu Lâm tự)
Tuy nhiên, sự súc tích của các pho sách tổ sư để lại đã khiến tăng chúng không đạt được sự thống nhất trong cách hiểu, từ đó nảy sinh nhiều võ công mới lạ, có lúc rời xa những nguyên lý căn bản. Từ cuối đời Tống, Thiếu Lâm phái nổi lên phong trào sáng tạo mạnh mẽ chưa từng thấy, người người, nhà nhà đều tự nhận mình là môn đồ Thiếu Lâm chính tông. Hiện tượng này chắc chắn không đưa võ công Thiếu Lâm đến đỉnh thịnh, mà dẫn đến tạp nhiễm và suy thoái. Đó không phải điều các trưởng tràng Thiếu Lâm trông đợi.

Mùa thu năm 1333, vào đời vua Huệ Tông nhà Nguyên, để chỉnh lý nội bộ Thiếu Lâm phái đã phát triển vượt ngoài tầm kiểm soát, Đại hội võ thuật Thiếu Lâm được mở tại Tàng Kinh Các. Đại hội triệu tập 700 trưởng tràng các chi nhánh, các tân môn, cựu môn, các quan nhân nguyên là môn đồ Thiếu Lâm ra xuất chánh, chủ trì đại hội là thiền sư phương trượng đời thứ 12 Nguyên Hạnh và 4 vị trưởng lão tiền bối trước đó đã ẩn cư trên 20 năm trong núi sâu.

Nguyên Nhiên, bấy giờ là một môn đồ sơ đẳng của Thiếu Lâm, đưa ra ý kiến khởi đầu các môn đồ phải tập những võ công căn bản, sau đó tùy sở trường của từng người thì luyện tập các môn mình thấy phù hợp. Ý kiến được các sư trưởng và toàn thể Đại hội nhất trí thông qua.

Sau khi tổng kết, xem xét hàng ngàn phương pháp, cách thức, bí quyết tu luyện võ công, gồm khinh công, thủy công, nhuyễn công, ngạnh công, nội công, ngoại công… được các trường tràng, các chi nhánh và các cao thủ phát triển trên nền tảng võ học Thiếu Lâm phái, Đại hội đã tiến hành sắp xếp, phân loại, và tổng hợp thành Thiếu Lâm thất thập nhị huyền công - 72 tuyệt kỹ võ học Thiếu Lâm Tự, bao quát toàn diện những hệ thống võ công từ nguyên khởi đến cả những thời điểm hoàng kim nhất của võ phái, và dù sau này có một thiên tài võ học tìm thêm được các công phu nào đó và tuyên bố rằng đó là một hệ thống chưa từng có, thì cũng vẫn có thể xếp vào một trong 72 môn loại đã được Đại hội ấn định.

Cuối đời Nguyên, thiên hạ đại loạn, quân Khăn đỏ kéo đến Thiếu Lâm, tăng chúng tản đi khắp nơi. Như mỗi lần Trung nguyên rơi vào vòng binh hỏa, kungfu Thiếu Lâm lại có dịp xuất thế lập công, và đó cũng là tiền đề cho thời kì cực thịnh của võ công Thiếu Lâm dưới đời Minh.

VÕ ĐANG
Võ Đang sơn còn gọi là Thái Hòa sơn được mệnh danh là: "Trung Quốc đạo giáo danh sơn” nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Hồ Bắc. Phía Bắc giáp Tần Lĩnh Phía Nam giáp Ba sơn núi non trập trùng dọc ngang hơn 400 dặm. Sơn thế hùng vĩ với tổng cộng 72 ngọn núi mà chủ phong là đỉnh Thiên Trụ Phong cao 1612m.

Đây cũng là Tổng Đàn của phái Võ Đang. Tổ sư sáng lập ra Võ Đang phái là “Lạp Tháp Đạo nhân” Trương Tam Phong. Trương Tam Phong có tên là Trương Toàn Nhất, còn gọi là Trương Quân Bảo, “Tam Phong” là đạo hiệu.

Nghe nói Trương Tam Phong vốn là đạo sĩ ở Võ Đang Sơn được vua Huy Tông (vị vua cuối cùng của thời Bắc Tống) mời lên Kinh để đàm đạo trên đường đi ông đã gặp thích khách Trương Tam Phong một mình giết chết hơn 100 võ lâm cao thủ, sau này về núi đã sáng lập ra phái “Nội Gia Quyền”.

Lại có truyền thuyết nói rằng:” Trương Tam Phong vốn xuất thân từ Thiếu Lâm Tự tinh thông “Thập Bát Ban võ nghệ” nhưng trong quá trình luyện võ tại Thiếu lâm đã có nhiều bất đồng về tư tưởng võ học, nhiều lần làm phật lòng các vị Phương Trượng. Có lần Trương Tam Phong đã sử dụng những chiêu thức do mình sáng chế ra đánh bại một vị Phương Trượng sư phụ nên bị đuổi ra khỏi Thiếu Lâm tự.

Về sau đã khai sáng nên Võ Đang phái còn gọi là “Nội gia quyền”. Lại cũng có một thuyết khác nữa về Vị này, thuyết đó nói rằng Trương Tam Phong vốn xuất thân là một đầu bếp của chùa Thiếu Lâm, sau nhờ cơ duyên mà lãnh hội được một phần của Nhất đại Kinh thư, lại nhờ thông minh hơn hẳn người thường nên sau này tài năng xuất chúng, tự mình đứng ra lập phái.

Dù là truyền thuyết nào đi nữa, khi nhắc tới ông, mọi người đều một lòng tôn kính nhờ tài năng và đức độ hơn người của ông.

Thế nhân gọi Trương Tam Phong là “Nhất đại tông sư”. Trương Tam Phong vừa là tổ sư của “Võ Đang Nội Gia quyền” , vừa là Thủy tổ sáng lập ra “Thái cực quyền”. “Nội gia quyền” phân làm bốn hướng: “Thái cực, Bát quái, Hình ý và Thái thành” lấy Thái cực làm chủ.

Võ Đang phái cũng lâu đời và nổi danh không thua gì Thiếu Lâm. Võ Lâm về sau đã có câu nói: "Bắc tôn Thiếu Lâm, Nam sùng Võ Đang".

Võ Đang phái đệ tử đa số là nam giới lấy sự hiệp nghĩa mà vang danh thiên hạ. Đồng môn với nhau luôn lấy nghĩa khí, đạo lý làm trọng.

Đệ tử của Võ Đang không bắt buộc phải ăn chay , có thể kết hôn, vì vậy đệ tử của Võ Đang phân làm hai loại: "chay giới" và “không chay giới”, song chưởng môn thì bắt buộc phải ăn chay. Các môn đệ nếu như không ăn chay sẽ không thể tiếp quản chức vị chưởng môn.

Tuyệt kỹ trấn môn là Thái Cực Thần Công. Một số chiêu thức của Võ Đang: Võ Đang kiếm pháp, Võ Đang Quyền pháp, Thiên Địa Vô Cực, Vô Ngã Vô Kiếm, Thái Cực Thần Công.


Bấm vào đây để xem Tiếp Theo


<
Online Users
online counter

VISIT: 14530

TRỞ VỀ TRANG CHỦXẾP HẠNG QUỐC TẾ

Khi sao chép tài liệu này phải ghi rõ trích từ nguồn
http://vg34.wapath.com
để người xem có thể tìm về nguồn nhơ tư vấn khi cần thiết
============
When copying this document must clearly deducted from
http://vg34.wapath.com
so viewers can return to power through the necessary consultation




GOOGLE INTERNATIONAL TRANSLATE
DỊCH TRANG WEB NÀY THEO NGÔN NGỮ TRONG KHUNG LỰA CHỌN BÊN TRÊN

KHI XEM TRANG WEB NÀY ĐỀ TÀI MÀ BẠN QUAN TÂM THEO DỎI LÀ GÌ?
chúng tôi sẽ bổ sung theo
nhu cầu của ban
  
pollcode.com free polls 

CHIA SẺ BÀI VIẾT NÀY VỚI MỌI NGƯỜI



NHẬP TỪ KHOA BẤT KỲ VÀO KHUNG BÊN DƯỚI ĐỂ TÌM CÁC NỘI DUNG TRONG TRANG WAP NÀY


CÁC TRÌNH DUYỆT ĐANG ONLINE
tại các trang nào trong wap?

NHẬN QUẢNG CÁO WAP TẠI TRANG CHỦ NÀY VÀ TẤT CẢ CÁC TRANG PHỤ TRÊN WAP NÀYMọi chi tiết xin liên hệ vg34dmv@gmail.com hay SMS +841207815475 (số máy này chỉ nhận được tin nhắn, không đàm thoại được)

GAMES HAY ĐÃ VIỆT HÓA
Hãy Download ngay
CLICK VÀO ĐÂY
Bạn sẽ được như ý...

Hãy Truy cập wapsite có từ năm 2009 với nội dung phong phú và liên kết trực tiếp với VG34
http://vvv6.xtgem.com

ĐẦU TRANG

THỐNG KÊ


TÌNH TRẠNG ONLINE HIỆN TẠI



TRỞ VỀ GIAO DIỆN XTGEM

web counter


ONLINE

online counter

Flag Counter


Online Users
online counter


SỐ TRUY CẬP RIÊNG TRANG NÀY
HÔM NAY: 21